TT.TS. Thích Viên Trí
Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM
Dẫn nhập
Khổ đau và hạnh phúc là hai phạm trù mà con người luôn cảm nghiệm trong đời sống hằng ngày. Dường như rằng khi đón nhận hạnh phúc, đa phần người ta ít suy nghĩ vì sao mình được hạnh phúc mà chỉ việc hưởng thụ. Tuy nhiên, khi đón nhận khổ đau, con người lại luôn đắn đo, trăn trở lý do tại sao họ phải khổ đau, khổ đau ấy từ đâu… Từ đây, vô số lập luận được vin vào để làm giảm thiểu nỗi khổ tâm lý để tồn tại. Theo giáo lý Phật giáo, mọi hình thái khổ đau (sự thật về khổ hay khổ đế) của con người từ xưa đến nay không phải do thần thánh tạo, không phải do định mệnh, không do bất cứ ngoại lực nào chi phối, mà bắt nguồn từ lòng tham lam, khát ái của chính con người. Quan điểm này được đức Phật tuyên bố trong chân lý thứ hai (tập đế hay nguyên nhân của khổ) của giáo lý Tứ Diệu Đế: nguyên nhân chính của khổ đau chính là lòng khát ái, tham dục của con người (Tanha). Theo chúng tôi, lời dạy này vẫn còn giá trị nguyên vẹn khi đối chiếu với khổ đau mà mỗi chúng ta đang phải cảm nghiệm. Hơn thế nữa, với những gì đã và đang xảy ra cho con người và thế giới tự nhiên, có lẽ cũng xứng đáng để chúng ta dành ít thời gian kiểm chứng những lời dạy này của đức Phật qua những vấn nạn mà nhân loại ngày nay đang đối mặt.

Những vấn nạn của xã hội đương thời
Rõ ràng, thế giới đương thời đang đối diện với nhiều sự khủng hoảng. Cơn sóng khủng hoảng này, vốn khởi sinh từ lòng tham vô đáy của con người, đang lan tràn khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ thành thị đến thôn quê, từ những xứ sở văn minh, giàu có đến các vùng đất lạc hậu, nghèo nàn. Cuộc khủng hoảng này rất đa dạng và phức tạp, đang biến chuyển theo thời gian, không gian, địa dư, văn hóa… Nói theo ngôn ngữ của Antonio Gutters, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, “…những người Phật tử và không phải Phật tử có thể quán chiếu về cuộc đời của Ngài và rút ra nguồn cảm hứng từ những lời dạy của Ngài. Sinh ra là một hoàng tử, người đã vượt lên trên lợi ích cá nhân và đi vào cuộc đời để giúp đời thêm vui bớt khổ. Những lời dạy giá trị của Ngài dựa trên tinh thần từ bi và trí tuệ. Và như vậy, bức thông điệp của Ngài có liên quan mật thiết đến việc phục vụ nhân sinh. Thế giới phải đối mặt với nhiều thách thức, từ xung đột tới sự biến đổi khí hậu, từ thành kiến tới việc gia tăng bất bình đẳng. Chúng ta biết mọi người đang hướng về nội tâm, và một cuộc khủng hoảng đoàn kết đang hàn gắn lại. Phật pháp có thể truyền cảm hứng cho chúng ta trở thành các công nhân toàn cầu.”
Nguyên nhân của những vấn nạn
Trong nhãn quan của các triết gia, đây là cuộc “khủng hoảng văn hóa”, tức là khủng hoảng lý tưởng sống, bắt nguồn từ truyền thống Do Thái giáo thuộc Tây Nam châu Á và Thiên Chúa giáo, sau đó lan tràn khắp nơi. Có nơi người ta lại nói về “cuộc khủng hoảng đạo đức, luân lý” khi mà những tiêu chuẩn sống được đặt trên bàn cân của suy tư vật chất, thực dụng. Các nhà tâm lý học thì cho rằng cuộc khủng hoảng này phát sinh từ cái gọi là “malaise, ennui, mal du siècle – phiền muộn, bực dọc, bệnh thế kỷ. Đó là ‘sự tê liệt hóa cuộc sống, sự máy móc hóa con người, sự cách ly khỏi chính mình, đồng loại và thiên nhiên.’ Có nơi cuộc khủng hoảng môi trường là chủ đề chính, khi thời tiết, khí hậu mỗi ngày khắc nghiệt, mưa không thuận, gió không hòa. Đặc biệt, cơn khủng hoảng đang ám ảnh cuộc sống của nhân loại là cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, đã và đang làm xáo trộn cuộc sống của mọi tầng lớp người trong xã hội. Trong nỗ lực tìm kiếm lộ trình phương cách để giải quyết những vấn nạn mang tính toàn cầu này, nhiều hội thảo đã được tổ chức, nhiều tổ chức được hình thành, rất nhiều giải pháp có giá trị đã được đề xuất theo từng quan điểm và lập trường mà cá nhân xuất phát.
Nguồn gốc của vấn nạn
Như đã đề cập ở trên, trong cái nhìn Phật học, những vấn nạn hiện nay đều khởi sinh từ một nguyên nhân chính: đó là lòng tham quá độ, thiếu lòng bác ái và vị tha của con người. Lý do cho lập luận trên có thể được hiểu như sau: Khủng hoảng niềm tin bởi vì phần lớn con người thời nay có khuynh hướng nặng về vật chất, hưởng thụ, mất lòng tin vào đời sống tâm linh, tôn giáo, không tin đạo lý nhân quả. Khủng hoảng đạo đức bởi lẽ ý tưởng thực dụng đang ăn mòn những giá trị nhân văn, cơn khát thỏa mãn cảm xúc đang đốt cháy những giá trị văn hóa tinh thần. Khủng hoảng môi trường vì thế giới thiên nhiên bị lạm dụng, khai thác một cách không thương tiếc để phục vụ cho cơn đói dục vọng, cảm xúc của con người. Khủng hoảng tài chính bởi lẽ lòng tham đang biến con người trở thành nô lệ cho khát ái của chính mình; cụ thể tham nhũng, hối lộ, móc ngoặt, biến chất, bất chấp hậu quả đều là hệ quả của lòng tham vô đáy này. Phần lớn con người thời nay đang bị đắm chìm trong ý niệm “sở hữu thay vì hiện hữu”. Có thể thấy rằng những khuynh hướng sống lệch lạc trên là biểu hiện của cực đoan “hưởng thụ dục lạc”, vốn có nguồn gốc từ triết lý đoạn diệt. Như thế, nguyên nhân của mọi khủng hoảng hiện nay rõ ràng đều có gốc rễ từ lòng tham dục của con người và hậu quả của nó đã đưa nhân loại chìm sâu trong thế giới chiến tranh, nghèo đói, trộm cắp, bão lụt, thiên tai.
Theo quan điểm Phật giáo, ái dục hay lòng tham của con người bao gồm trong ba loại: (a) dục ái hay khát ái (kàmmatanhà); (b) hữu ái (bhavatanhà) và (c) vô hữu ái (vibhavatanhà). Dục ái hay khát ái (kammatanha) là lòng đam mê, sự thèm khát nhục dục. Lòng dục này là động cơ chính đưa đến việc con người tàn sát mọi loài sinh vật, khai thác quá độ thế giới tự nhiên để thỏa mãn cơn đói cảm xúc mà hệ quả là thiên tai, hạn hán, bão lũ, sóng thần… mà cả thế giới đang phải đối mặt. Hữu ái (bhavatanha) là thèm khát sự hiện hữu, sống lâu, sự trở thành, sự nổi tiếng. Nó là nguồn gốc của mọi hình thức đấu tranh, chiến tranh để giành địa vị, danh vọng, của cải vật chất, tín đồ… Giết người, trộm cắp, tàn hại lẫn nhau… đều là sản phẩm của loại dục vọng này. Vô hữu ái (vibhavatanhà) nghĩa là chán ghét sự hiện hữu, chán ghét cuộc sống, thèm khát sự tự hủy diệt. Rõ ràng, ba loại khát ái (tanha) này đã tạo nên một thế giới đầy khổ đau và biến động như hiện nay. Vì vậy, theo Phật giáo, nếu muốn có cuộc sống, an bình, hạnh phúc thật sự thì con người cần phải làm chủ dục vọng (tanha), hạn chế lòng dục, kiềm chế lòng dục, và cuối cùng phải đoạn trừ lòng dục.
Những phẩm chất cần thiết để chuyển hóa vấn nạn
Những người theo trường phái hưởng thụ, thực dụng chắn hẳn sẽ không đồng ý với kết luận trên, vì theo họ, sống là phải khát vọng, sống là phải hưởng thụ và sống là phải thỏa mãn mọi nhu cầu dục vọng. Vì vậy, họ đã kết luận rằng giáo lý của Phật giáo là con đường đưa đến sự đoạn diệt sự sống. Tất nhiên, Phật giáo không thể nào và không bao giờ là tôn giáo đoạn diệt sự sống. Trái lại, Phật giáo hướng con người đến sự sống đích thực, sống an vui hạnh phúc trong thực tại với những giá trị chân, thiện, mỹ. Trong bài viết này, chúng tôi muốn trình bày bốn yếu tố quan trọng để hạn chế và diệt trừ dục vọng của con người, qua đó góp phần xây dựng một đời sống bình an, hạnh phúc mà theo thiển ý của chúng tôi, lời dạy này của đức Phật vẫn còn giá trị nguyên vẹn cho con người đương thời.
1. Tri túc (Biết đủ) Trước hết, tri túc có nghĩa là biết vừa đủ, không quá thiếu thốn, cũng không quá dư thừa. Đây là nguyên tắc sống có tính đạo đức. Người biết đủ là người không quá nghèo khó cũng không quá giàu có. Người biết đủ là người không thụ hưởng quá nhiều cũng không thụ hưởng quá ít. Đức Phật khuyên chúng ta nên biết đủ, tức là nhận thức một cách sáng suốt những gì mình đang có, không chạy theo vật chất, không chạy theo cảm xúc. Điều này rất quan trọng trong đời sống hiện đại, bởi vì khi chúng ta biết đủ, chúng ta sẽ không còn lòng tham vô độ, chúng ta sẽ không còn cảm thấy thiếu thốn và không còn mong muốn thỏa mãn cơn khát dục vọng. Khi đó, chúng ta sẽ cảm thấy an vui và hạnh phúc trong chính cuộc sống hiện tại của mình.

2. Từ bi (Lòng thương yêu) Đức Phật đã dạy rằng từ bi là cốt lõi của đạo Phật. Từ bi có nghĩa là lòng thương yêu và cảm thông với tất cả chúng sinh. Khi chúng ta có lòng từ bi, chúng ta sẽ không làm tổn thương người khác, không làm hại môi trường, không làm điều ác. Thay vào đó, chúng ta sẽ sống một cách hòa bình, giúp đỡ người khác và bảo vệ môi trường. Từ bi giúp chúng ta cảm nhận được sự liên kết giữa tất cả chúng sinh và giúp chúng ta sống một cách có ý nghĩa và tràn đầy hạnh phúc.

3. Chánh niệm (Sự tỉnh thức) Chánh niệm là một yếu tố quan trọng trong việc diệt trừ dục vọng. Chánh niệm có nghĩa là sự tỉnh thức, sự chú ý và sự nhận thức một cách rõ ràng những gì đang diễn ra trong hiện tại. Khi chúng ta có chánh niệm, chúng ta sẽ nhận thức rõ ràng về những gì mình đang làm, đang nghĩ và đang cảm nhận. Chánh niệm giúp chúng ta kiểm soát được những suy nghĩ, cảm xúc và hành động của mình. Khi đó, chúng ta sẽ không bị cuốn vào lòng tham, không bị dục vọng chi phối và sẽ sống một cách bình an và hạnh phúc.

4. Trí tuệ (Hiểu biết) Trí tuệ là yếu tố quan trọng nhất trong việc diệt trừ dục vọng. Trí tuệ có nghĩa là sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của cuộc sống, về nguyên nhân và hậu quả của những hành động của mình. Khi chúng ta có trí tuệ, chúng ta sẽ nhận thức rõ ràng về những gì mình đang làm và những hậu quả mà những hành động đó sẽ mang lại. Trí tuệ giúp chúng ta hiểu rằng mọi hình thức khổ đau đều xuất phát từ lòng tham và dục vọng của con người. Khi đó, chúng ta sẽ biết cách hạn chế và diệt trừ lòng tham, sống một cách bình an và hạnh phúc.

Kết luận
Những lời dạy của đức Phật về lòng tham và dục vọng vẫn còn giá trị nguyên vẹn đối với con người đương thời. Những vấn nạn mà xã hội hiện nay đang phải đối mặt đều xuất phát từ lòng tham vô độ của con người. Vì vậy, nếu muốn sống một cuộc sống bình an và hạnh phúc, chúng ta cần phải biết đủ, có lòng từ bi, chánh niệm và trí tuệ để hạn chế và diệt trừ lòng tham và dục vọng. Những lời dạy này của đức Phật không chỉ giúp chúng ta sống một cuộc sống bình an và hạnh phúc mà còn giúp xây dựng một xã hội công bằng, hòa bình và phát triển bền vững.